Ấn Độ là một trong những nền văn minh lớn của nhân loại, điều đó thể hiện rất rõ qua các giá trị vật chất và giá trị tinh thần vượt thời gian còn tồn tại cho đến ngày nay, chính các giá trị ấy lại ảnh hưởng đến chính cuộc sống của xã hội con người bây giờ. Bức tranh tôn giáo của Ấn Độ là một bức tranh đầy mầu sắc về sự hình thành, phát triển và suy yếu của các tôn giáo lớn của Ấn Độ thời kỳ đầu.
Sự hình thành của các loại tôn giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaina và đạo Sikh.
Đạo Bàlamôn mà sau này là Ấn Độ giáo ra đời vào khoảng thế kỉ 15 TCN, trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó.
Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ 1 TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáolấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Phật lịch, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên Chúa). Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điều), vô ngã, duyên khởi.
Đạo Jaina cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ 6 TCN. Cùng thời với Phật giáo. Đạo này chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
Đạo Sikh xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ 15. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết hợp giáo lí của Ấn Độ giáo và giáo lí của Hồi giáo. Tín đồ đạo Sikh tập trung rất đông ở Punjab và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjab. Đạo Sikh là đạo sinh ra cuối cùng trên đất Ấn Độ.
Về Đạo Bà la môn: Đạo Balamôn không có người sáng lập, không có giáo chủ. Đạo Balamôn thờ thần Brama(thần Sáng tạo), Visnu(thần Bảo vệ), Siva(thần Huỷ diệt, có huỷ diệt cái cũ thì mới có thể sáng tạo cái mới)...Về mặt xã hội, đạo Balamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lí quan trọng nhất của đạo Balamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh hưởng. Trong quá trình phát triển, đạo Balamôn có thể chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn Vêđa ( thế kỉ XV TCN - thế kỉ V TCN ), giai đoạn Balamôn ( thế kỉ V TCN - đầu CN ), giai đoạn Hinđu (đầu CN - nay )
Về đạo Phật: Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế( bốn điền suy xét kì diệu):
• Khổ đế (suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo)
• Khổ đế (suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo)
• Nhân đế-Tập đế(nguyên nhân của sự khổ là dục-lòng ham muốn)
• Diệt đế (con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo)
• Đạo đế (con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo) Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành-Bát chánh:
• Chánh kiến: Phải có tín ngưỡng đúng đắn.
• Chánh tư duy: Phải có suy nghĩ đúng đắn.
• Chánh ngữ: Phải có lời nói đúng.
• Chánh nghiệp: Phải có hành động đúng .
• Chánh mệnh: Phải có cuộc sống đúng đắn.
• Chánh tinh tiến: Phải có những ước mơ đúng đắn.
• Chánh niệm: Phải có những điều tưởng nhớ đúng đắn.
• Chánh địn Phải tập trung tư tưởng mà suy nghĩ . Đạo Phật còn đề ra Ngũ giới:
• Bất sát sinh: Không giết hại các động vật.
• Bất đạo tặc: Không trộm cướp.
• Bất vọng ngữ: Không nói dối .
• Bất tà dâm: Không tham vợ hay chồng của người khác.
• Bất ẩm tửu:
Không uống rượu.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường. Vô tạo giả quan niệm, thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra, tự nhiên mà có và vô cùng vô tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như các tôn giáo khác. Vô ngã cho là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là tập hợp của Ngũ uẩn ( sắc, thụ, tưởng, hành , thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài. Vô thường cho là vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu cả. Qua những giáo lí ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo Phật chỉ là một triết lí về nhân sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không thời bất cứ một vị thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Sakya Muni cũng không tự coi mình là thần thánh. Tuy Phật tổ Sakya Muni có tổ chức các tăng đoàn Tỳ Kheo (đoàn thể những tăng lữ khất thực) để đi truyền bá đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một tổ chức tôn giáo có hệ thống chùa tháp như ngày nay. Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo Phật lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người(từ bi hỉ xả),tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự công bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
Còn hai đại còn lại là: Đạo Jaina, Đạo Sikh là hai tôn giáo chưa có sự lớn mạnh như đạo phật và đạo Bà la môn cho lên nó chưa thực sự ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống Ấn Độ cũng như ảnh hưởng ra các vùng lacnh thổ khác trên thế giới.
Bức tranh về tôn giáo Ấn Độ cho thấy từ rất lâu còn người đã tìm cách lý giải các hiện tượng kỳ bí của tự nhiên, họ tự xây dựng cho mình những niềm tin vào đấng siêu nhiên, kiếp luôn hồi. Họ thực sự tin vào những điều đó làm cho sự lớn mạnh của các tôn giáo này càng lớn dần và ăn sâu trong suy nghĩ của con người trong xã hội.
Tôn giáo nó còn phản ánh một phần quan trọng về cuộc sống của con người Ấn Độ khi mà sự phát triển của các tôn giáo lớn kéo theo hình thành các giáo lý và các phương thức thi hành các tín ngưỡng tôn giáo của họ. Nó phản ánh trình độ và nhận thức của một xã hội. Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều thể hiện rõ vấn đề về một bức tranh của xã hội bấy giờ, tuy nhiên mỗi tôn giáo lại có sự thể hiện về xã hội theo cách khác nhau do sự ảnh hưởng trực tiếp của nó vào trong đời sống.
No comments:
Post a Comment