Nhân
đọc bài: Nước nghèo, nước giàu và chuyện ăn cắp bản quyền trên
trang Tuần Vietnamnet.vn ngày 9/5 chúng tôi xin giới thiệu cùng các bạn đọc
chuyên đề: Một số vấn đề về Quyền sở hữu trí tuệ của tác giả
Thomas G. Field Jr trên trang TT Điện tử Bộ Ngoại giao Hoa kỳ để tiện theo dõi.
Quyền sở Hữu Trí tuệ là gì?
Tại
sao những quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hà Lan lại bảo vệ các phát minh; các
tác phẩm nghệ thuật và văn học; các biểu tượng, hình ảnh, tên, thiết kế dùng
trong thương mại: thông tin và lời nói được dùng lần đầu của những cá nhân sáng
tạo ra chúng được gọi là sở hữu trí tuệ (IP)? Các quốc gia này làm như vậy bởi
lẽ họ biết rằng bảo vệ những quyền sở hữu này thì mới thúc đẩy được phát triển
kinh tế, khuyến khích phát minh kỹ thuật và thu hút được đầu tư để tạo ra công
ăn việc làm mới và những cơ hội cho công dân của họ. Báo cáo về Triển vọng Kinh
tế Toàn cầu của Ngân hàng Thế giới năm 2002 đã khẳng định tầm quan trọng ngày
càng tăng của sở hữu trí tuệ đối với các nền kinh tế toàn cầu hóa hiện nay và
phát hiện ra rằng “với các mức thu nhập khác nhau thì quyền sở hữu trí tuệ
(IPR) thường gắn liền với thương mại và các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài lớn hơn và nhờ vậy có tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn”. Chẳng hạn như
tính riêng ở Hoa Kỳ thì các nghiên cứu trong thập kỷ vừa qua đã ước tính rằng
hơn 50% lượng hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ hiện nay phụ thuộc vào việc bảo vệ các
loại sở hữu trí tuệ so với dưới 10% trước đây 50 năm.
Những
người có năng khiếu nghệ thuật hoặc sáng tạo có quyền ngăn chặn việc sử dụng
hay mua bán trái phép những sáng tạo của mình, giống như người sở hữu những tài
sản hữu hình như xe hơi, nhà ở, cửa hàng. Tuy nhiên, so với những người làm ra
ghế, tủ lạnh hay những hàng hóa hữu hình khác thì những người sở hữu các sản
phẩm vô hình gặp nhiều khó khăn hơn trong việc kiếm sống nếu như khiếu nại của
họ về các sáng tạo của họ không được tôn trọng. Nghệ sỹ, tác giả, nhà phát minh
và những người khác không thể dùng khóa hay hàng rào để bảo vệ tác phẩm của họ
hoặc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để ngăn những người khác kiếm lợi từ thành
quả lao động của họ.
Ngoài
việc để cho các nhà phát minh và nghệ sỹ có thể nhận được bồi thường xứng đáng
và để cho các quốc gia thu hút được đầu tư và công nghệ nước ngoài thì việc bảo
vệ sở hữu trí tuệ còn rất quan trọng đối với người tiêu dùng. Chúng ta không
thể có những tiến bộ trong ngành giao thông, truyền thông, nông nghiệp và chăm
sóc y tế nếu không bảo vệ mạnh mẽ quyền sở hữu trí tuệ.
Việc
thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng tăng cũng liên quan rất
nhiều tới mức sống được nâng cao nhanh chóng ở những quốc gia như Trung Quốc và
Ấn Độ. Chỉ vài năm trước đây, Ấn Độ đã không thể giữ được các kỹ sư và chuyên
gia máy tính hàng đầu của mình. Việc thiếu các quy định về bảo vệ sở hữu trí
tuệ đã buộc các chuyên gia này di cư sang những quốc gia nơi mà thành quả lao
động của họ được bảo vệ và những đối thủ cạnh tranh không được phép khai thác
trái phép những tiến bộ khoa học. Sau đó vào năm 1999, Quốc hội Ấn Độ đã thông
qua một đạo luật bảo vệ sản phẩm trí tuệ của các chuyên gia máy tính. Kết quả
là Ấn Độ đã có ngành công nghiệp công nghệ cao sản xuất những phần mềm tiên
tiến nhất thế giới và sử dụng hàng ngàn nhân công mà lẽ ra đã rời Ấn Độ để sang
những nước giàu có hơn.
CÁC LOẠI SỞ HỮU TRÍ TUỆ QUAN TRỌNG
Những
hình thức sở hữu trí tuệ chủ yếu là bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu và bí
mật thương mại. Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và
sở hữu tài sản thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép
chúng ta có thể mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho không sở hữu trí tuệ của
chúng ta như tài sản thông thường. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu,
người phát minh và tác giả bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép.
Bản quyền
Bản
quyền là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tác ra
các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và
trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Bản quyền chủ yếu
nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác phẩm nghệ
thuật có giá trị văn hóa khác. Khi nghệ sỹ và người sáng tác đưa ra những hình
thức thể hiện khác thì những loại hình thể hiện mới này cũng được bao gồm trong
trong những công trình được bảo hộ bản quyền. Các chương trình máy tính và ghi
âm giờ đây cũng được bảo vệ.
Bản
quyền cũng được bảo vệ lâu hơn nhiều so với một số hình thức sở hữu trí tuệ
khác. Công ước Berne, công ước quốc tế được ký năm 1886, theo đó các nước tham
gia công ước công nhận các tác phẩm được bảo hộ bản quyền của các nước thành
viên, quy định rằng thời gian bảo hộ bản quyền là 50 năm kể từ khi tác giả qua
đời. Theo Công ước Berne thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các tác phẩm
có giá trị khác được bảo hộ bản quyền ngay từ khi ra đời. Tác giả không cần
phải đăng ký chính thức quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình tại những quốc gia
là thành viên của Công ước đó.
Tuy
nhiên, Công ước Berne cho phép cấp bản quyền có điều kiện, chẳng hạn như trường
hợp của Hoa Kỳ chỉ bảo hộ bản quyền đối với những tác phẩm được sáng tác theo
những hình thức nhất định. Nhiều nước cũng có các trung tâm bản quyền quốc gia
để quản lý hệ thống bản quyền. Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, Hiến pháp cho phép Quốc
hội ban hành luật để thiết lập hệ thống bản quyền và hệ thống này do Phòng Bản
quyền thuộc Thư viện Quốc hội quản lý.
Phòng
Bản quyền của Hoa Kỳ là nơi nhận các khiếu nại về bản quyền và là nơi các văn
bản liên quan tới bản quyền được lưu giữ khi đáp ứng được các yêu cầu của luật
bản quyền Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối với tất cả các tác phẩm - kể cả tác phẩm nước
ngoài - thì việc đăng ký bản quyền mau lẹ ở Hoa Kỳ sẽ đem lại những thuận lợi
với chi phí không đáng kể.
Khả
năng nhanh chóng đăng ký quyền bảo hộ bản quyền đã làm cho các ngành công
nghiệp giải trí khổng lồ của Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ. Theo báo cáo năm 2004 của
Stephen Siwek về các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền trong nền kinh tế
Hoa Kỳ thì các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền “chủ yếu” ở Hoa Kỳ đóng
góp 6% vào GDP năm 2002 của Hoa Kỳ, hay 626,2 tỷ đô-la Mỹ. Báo cáo định nghĩa
các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền “chủ yếu” là ngành báo chí, xuất
bản sách, ghi âm, âm nhạc, tạp chí thường kỳ, phim ảnh, chương trình truyền
hình và phát thanh, phần mềm máy tính. Trong báo cáo năm 2004 thì cửa hàng sách
và quầy bán báo cũng được đưa thêm vào danh sách các ngành công nghiệp “chủ
yếu”.
Chỉ
tác giả hay những người được tác giả trao quyền - chẳng hạn như nhà xuất bản-
mới có toàn quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy nhiên cho dù là ai đang sở hữu
bản quyền đi chăng nữa thì quyền đó cũng có giới hạn. Ví dụ như ở Hoa Kỳ người
ta có thể sao chép lại một phần tác phẩm với mục đích học tập, phê bình, đưa
tin hay giảng dạy. Những quy định tương tự về “sử dụng hợp lý” cũng có ở những
quốc gia khác. Phạm vi về những ngoại lệ này được trao đổi kỹ hơn trong bài “Thế
nào là ‘sử dụng hợp lý’?”.
Bản
quyền bảo vệ việc xử lý số liệu nhưng không bảo vệ những số liệu mới được thu
thập. Hơn nữa, bản quyền không bảo vệ ý tưởng hay quy trình mới; nếu ý tưởng
hay quy trình được bảo hộ thì sẽ được bảo hộ trong bằng sáng chế.
Bằng sáng chế
Bằng sáng chế
Người
ta có thể nói rằng bằng sáng chế là hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và
một bên là cá nhân nhà phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà
phát minh được toàn quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và
bán một phát minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất
định - hầu hết các nước quy định là 20 năm - để đổi lại việc nhà phát minh phải
công bố chi tiết phát minh của mình cho công chúng.
Nếu
không có sự bảo hộ của bằng sáng chế thì nhiều sản phẩm đã không bao giờ xuất
hiện, đặc biệt là những sản phẩm cần vốn đầu tư lớn nhưng một khi đã bán ra thị
trường thì dễ dàng bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước làm theo. Ít nhất là kể
từ năm 1474 khi nước Cộng hòa Venice lần đầu tiên cấp bằng sáng chế thì việc
bảo hộ bằng sáng chế đã thúc đẩy sự phát triển và phổ biến những công nghệ mới.
Nếu
không có bằng sáng chế thì sẽ không thể có sự phát triển công nghệ. Nếu các nhà
sáng chế phải bảo vệ sáng chế của mình bằng cách giữ bí mật về những sáng chế
đó thì điều quan trọng hơn là những sáng chế không được công bố này sẽ bị mai
một đi.
Tuy
nhiên, việc xin cấp bằng sáng chế không hề đơn giản. Bằng sáng chế không được
cấp cho những ý tưởng mơ hồ mà chỉ được cấp cho những đơn xin cấp bằng được
trình bày một cách cụ thể và cẩn thận. Nhằm tránh việc bảo hộ cho những công
nghệ đã được phổ biến hay công nghệ mà đến thợ thủ công bình thường cũng dễ
dàng làm được, những đơn xin cấp bằng sáng chế phải được các chuyên gia xem
xét. Do đơn xin cấp bằng sáng chế khác nhau rất nhiều về giá trị của công nghệ
mà đơn đòi bảo hộ, người xin cấp bằng sáng chế phải nói rõ phạm vi bảo hộ hợp
lý. (Phạm vi bảo hộ buộc người nộp đơn xin cấp bằng sáng chế phải rất thận
trọng trong việc đưa ra giới hạn về phát minh của mình và những gì sẽ được bảo
hộ khỏi sự xâm phạm). Việc này thường mất hai năm hoặc lâu hơn và rất tốn kém.
Bí mật thương mại
Bất cứ thông tin nào có thể được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai hay trong thực tại đều được coi là bí mật thương mại. Ví dụ về bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm, chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola; việc thu thập thông tin nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm chí gồm cả chiến lược quảng cáo và quy trình phân phối.
Khác
với bằng sáng chế, bí mật thương mại về lý thuyết được bảo vệ vô thời hạn và
không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị lộ và
việc bảo vệ bí mật thương mại thì phải trả tiền. Trường hợp tốt nhất là các
công ty phải hạn chế sự ra vào văn phòng và sự tiếp cận với các tài liệu, giáo
dục các nhân viên chủ chốt và thanh tra chính phủ và giám sát chặt chẽ các ấn
phẩm và các buổi thuyết trình về sản phẩm. Cho dù việc giữ bí mật rất tốn kém
nhưng các công ty lớn chủ yếu dựa vào việc giữ bí mật khi không xin được bằng
sáng chế. Công ty càng lớn thì lại càng cần pháp luật bảo vệ bí mật thương mại.
Những
công ty không thể dựa vào tòa án để bảo vệ những bí mật quan trọng thì phải dựa
vào chính mình. Chẳng hạn như họ có thể hạn chế nghiêm ngặt số lượng người có
thể tiếp cận các thông tin cạnh tranh quan trọng. Tương tự như vậy, thông tin
cần thiết cho những hoạt động quan trọng sẽ chỉ được tiết lộ khi bí mật thương
mại được bảo vệ đầy đủ. Nếu không thì chỉ đào tạo trên mức cần thiết một số rất
ít nhân viên để làm những nhiệm vụ lắp ráp không đòi hỏi chuyên môn cao.
Nhãn hiệu
Nhãn
hiệu là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt để xác định một loại
hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể sản xuất hoặc cung cấp.
Tại các làng xã, thợ chữa giày dùng tên của mình để làm chức năng này. Nhãn
hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và tiêu dùng ở cách xa nhau. Trẻ
nhỏ đòi mua búp bê Barbie, đồ chơi lắp ghép Lego và xe ô tô đồ chơi Hot Wheel.
Một số người lớn mơ ước chiếc xe Ferrari, nhưng đa số đều có thể mua xe hơi
hiệu Honda hay Toyota. Những khách hàng này cần nhãn hiệu để tìm kiếm hay né
tránh hàng hóa và dịch vụ của các công ty khác.
Ở hầu
hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải được đăng ký thì mới có thể bảo
hộ được và việc đăng ký cần phải được gia hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và
bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của công ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày
càng trở nên có giá. Nếu giả sử nhãn hiệu cũng bị hết hạn thì khách hàng cũng
bị thiệt hại chẳng kém gì người sở hữu nhãn hiệu. Chúng ta thử tưởng tượng sẽ
hỗn loạn như thế nào khi các công ty vô danh lại bán sản phẩm của mình với nhãn
hiệu của công ty khác. Và chúng ta hãy thử xem xét trường hợp chất lượng đáng
ngờ của tân dược giả và những điều tệ hại, thậm chí là tử vong, có thể xảy ra
khi người sử dụng không hề nghi ngờ gì về chất lượng của thuốc.
Việc
bảo hộ nhãn hiệu cũng được sử dụng rộng rãi trong các môn thể thao và ước tính
chiếm tới 2,5% giá trị thương mại toàn cầu. Chẳng hạn như hầu hết nguồn tài trợ
cho các kỳ Thế vận hội Olympic không phải là từ các chương trình truyền hình có
bản quyền mà là từ việc mua bán các quyền được nhãn hiệu bảo hộ.
Lúc
đầu, người mua những sản phẩm mang tên hay biểu trưng của các đội thể thao hay
sự kiện nổi tiếng có thể cho rằng là không có sự liên hệ nào giữa sản phẩm với
đội thể thao hay sự kiện, và đội thể thao không bảo đảm cho chất lượng của sản
phẩm, ví dụ như chiếc mũ lưỡi trai chơi bóng chày có in biểu tượng của đội.
Nhưng càng ngày khách hàng càng cho rằng có sự liên quan giữa sản phẩm và đội
thể thao. Tính tới thời điểm năm 1993, chỉ riêng các đội bóng chày của Mỹ đã
cấp phép sử dụng nhãn hiệu của họ cho số hàng hóa trị giá tới 2,5 tỷ đô-la.
Các loại sở hữu trí tuệ khác
Trong số các hình thức sở hữu trí tuệ cơ bản còn có rất nhiều loại hình bảo hộ đa dạng và đặc biệt. Ví dụ như các chỉ dẫn địa lý cho chúng ta biết được một loại sản phẩm có xuất xứ từ một địa phương mà tên địa lý của vùng gắn chặt với chất lượng, danh tiếng hay đặc trưng của sản phẩm đó. Một số nước bảo hộ riêng chỉ dẫn địa lý cho hàng hóa như rượu cô-nhắc của Pháp hay rượu whisky của Scotland. Ở Hoa Kỳ, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cùng với dấu hiệu và dấu hiệuchứng nhận. Chỉ dẫn địa lý được coi là một bộ phận của nhãn hiệu nhằm giúp khách hàng không bị nhầm lẫn và giúp bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Tương tự như vậy, các vận động viên và người biểu diễn nổi tiếng ở Hoa Kỳ có thể cấp phép hoặc cấm việc gian lận hay sử dụng tên và hình ảnh của mình vì mục đích thương mại sai trái. Dựa trên nhãn hiệu hay các quyền quảng cáo chưa hoàn thiện có liên quan, những người nổi tiếng thường kiếm được nhiều tiền hơn từ việc cho phép dùng tên và hình ảnh của mình hơn là từ những hoạt động dựa vào danh tiếng của họ.
Tương
tự như vậy, kiểu dáng mỹ thuật hay kiểu dáng trang trí của các đồ điện, ghế và
các vật dụng khác cũng được bảo hộ theo nhiều cách khác nhau. Nhiều kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc như đối với sáng chế về
kiểu dáng. Các nước khác đặc biệt là ở châu Âu còn có các loại hình bảo hộ
tương tự như bản quyền. Ở Hoa Kỳ, các tác phẩm có kiểu dáng mỹ thuật thuần túy
như đồ trang sức hay các mẫu vải có thể áp dụng cho các loại sợi được bảo hộ
bằng bản quyền. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn bảo hộ theo luật định hai loại hình đặc
biệt là các giống cây trồng mới, kiểu thân tàu độc đáo và con chíp máy tính.
Kiểu dáng chỉ nhằm mục đích chỉ rõ nguồn gốc thương mại có thể được bảo hộ theo
luật về Nhãn hiệu.
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐANG NỔI
LÊN: TÊN MIỀN TRÊN INTERNET
Nhu
cầu về các loại hình sở hữu trí tuệ mới đôi khi nảy sinh và việc chuyển nhượng
địa chỉ trên Internet đã đặt ra những vấn đề thực sự khó khăn. Giống như số
điện thoại, địa chỉ Internet có dạng cơ bản “123.456.123’. Nếu chỉ có vậy thôi
thì đã chẳng có vấn đề gì.
Cho
tới nay vẫn chưa có các thư mục hữu dụng nên hầu hết các địa chỉ đều có kiểu
kết hợp cả chữ lẫn số như “BBC.uk”, “BBC.com”, hay ‘yale.edu”. Phần đặc trưng
của mỗi địa chỉ (“BBC” hoặc “Yale”) được đăng ký là “tên miền”. Cũng giống như
địa chỉ thư báo xác định địa điểm duy nhất trên thực tế, tên miền xác định địa
điểm duy nhất trong “không gian mạng”.
Một
vài tổ chức quản lý việc đăng ký, gia hạn và chuyển nhượng tên miền tùy theo
phần cuối của các địa chỉ gồm chữ và số. Những địa chỉ kết thúc bằng mã quốc
gia là “fr” hay “uk” sẽ chịu sự điều chỉnh tương ứng của luật Pháp và luật Anh.
Những địa chỉ kết thúc bằng “edu” theo thỏa thuận với Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ
do Educause, một tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ, quản lý. Những địa chỉ kết thúc
bằng “com” và một số chữ khác sẽ được truy cập toàn cầu. Những địa chỉ này,
cũng theo thỏa thuận với Bộ Thương mại Hoa Kỳ, được điều chỉnh bằng quy định
của Công ty Internet chỉ định Tên và Số (ICANN).
Do
tên miền thường chứa tên, nhãn hiệu và những thứ tương tự của các công ty hay
các danh nhân nên ít người coi tên miền là địa chỉ thuần túy. Khi Internet mới
ra đời, người ta đã nhanh chóng biết rằng các tên miền có đuôi “.com” được đăng
ký để bán với số phí khổng lồ. Chẳng hạn như một hãng du lịch đăng ký tên miền
là “Barcelona.com”, một hành động bị thành phố Barcelona ở Tây Ban Nha lên án
và sau đó thành phố tiếp tục khiếu nại lên cấp cao hơn để giành lại tên miền
này. Người sở hữu các tên miền có ý định chọn tên miền với mục đích gây liên
tưởng trái phép bị kết tội “chiếm dụng không gian mạng trái phép”. Ngay sau đó,
người ta phải thiết lập các quy trình nhằm ngăn chặn những việc đăng ký tên
miền sai trái hay việc tên miền của mình bị chuyển cho người khác khi khiếu nại
lên cấp cao hơn về tính hợp pháp của tên miền.
Tuy
nhiên trong những trường hợp dễ dàng nhất thì việc chuyển một tên miền cho
người khác cũng tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc. Nhiều địa chỉ cũng có thể
do cùng một người hay công ty gợi ý tài trợ một cách sai trái. Kinh nghiệm cho
thấy rằng hủy bỏ những tên miền này là chưa đủ nếu như những người khác lại có
thể tiếp tục đăng ký tên miền đó. Nhưng duy trì việc đăng ký hàng trăm các địa
chỉ giả mạo cũng rất tốn kém.
Những
vấn đề này đã được hạn chế bằng cách đưa ra những hình phạt dân sự và hình sự
nghiêm khắc đối với những người chiếm dụng không gian mạng trái phép. Tuy
nhiên, vẫn còn một số trường hợp chưa xử lý được và chúng ta cần có nhiều biện
pháp hơn thì mới ngăn chặn được những hành động gây hại cho người sử dụng máy
tính trên toàn thế giới.
CÓ RẤT NHIỀU VẤN ĐỀ VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Cho
dù những công ước đầu tiên bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ - Công ước Paris về bảo
vệ quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne bảo vệ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật - đã được ký kết từ những năm 1880 nhưng sự phối hợp giữa các nước
trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho tới nay vẫn chưa đầy đủ.
Vấn
đề quyền sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được đưa ra thảo luận tại các Vòng đàm
phán Uruguay của GATT (Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch) từ năm 1986
đến 1993 với Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại
(TRIPS). Hiệp định TRIPS yêu cầu các nước tham gia ký kết tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho công dân nước mình và công dân nước khác trong việc nắm bắt và thực
thi quyền sở hữu trí tuệ cho dù Hiệp định này không quy định về tên miền như đã
nêu ở trên.
Các
quốc gia ký kết Hiệp định TRIPS cần phải biết rằng nếu luật sở hữu trí tuệ của
họ, trên văn bản, có vẻ như ủng hộ phát minh và bảo vệ sở hữu trí tuệ nhưng
trên thực tế lại không như vậy thì họ sẽ chẳng thu được gì ngoài những lời chỉ
trích giễu cợt. Ngược lại, những biện pháp ít tốn kém nhằm đảm bảo, chuyển giao
và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ thúc đẩy được phát triển văn hóa, nâng cao
mức sống và cải thiện an sinh và y tế cộng đồng.
Mặc
dù việc thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu đã đem lại những kết quả
kinh tế quan trọng nhưng nó cũng giúp đạt được một số những mục tiêu xã hội
khác. Bằng cách tạo ra cơ hội cho các công ty dược phẩm bù đắp những khoản đầu
tư trong nghiên cứu, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ có thể giúp loại bỏ
những nguy cơ về các loại bệnh hiểm nghèo. Ngoài việc thúc đẩy phát minh ra các
công nghệ mới thì luật về nhãn hiệu và bằng sáng chế còn giúp ngăn chặn những
tác hại nghiệm trọng do nạn hàng giả gây ra. Chẳng hạn như những người chủ tâm
đánh tráo các sản phẩm y tế bằng cách gắn nhãn mác giả có thể không màng tới
việc những sản phẩm y tế đó không có tác dụng hay thậm chí có hại cho người sử
dụng không hề mảy may nghi ngờ chất lượng của dược phẩm.
Nền
văn hóa của các quốc gia cũng bị đe dọa. Những tác phẩm của các họa sỹ, nhà
văn, nhạc sỹ và những người sáng tác khác thường được hỗ trợ bằng những cách
tương đối độc lập với nhu cầu vốn rủi ro của cá nhân. Tuy nhiên, dù việc này có
thực đi chăng nữa thì những tác phẩm này cũng thường không thể cạnh tranh nổi
trước việc mua bán bất hợp pháp những bản nhạc, bộ phim hoặc sách báo một cách
rẻ mạt hay miễn phí có xuất xứ từ nước ngoài. Những tác phẩm này sẽ có giá bán
cao hơn rất nhiều nếu bản quyền đối với những tác phẩm nói trên được thực thi.
Những
ai trên khắp thế giới quan tâm tới việc gìn giữ và phát triển văn hóa cũng như
là vấn đề nâng cao chăm sóc y tế và phát triển kinh tế đều nên hiểu rằng việc
bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ giúp đạt được những mục tiêu trên như thế nào.
Các Công ước và Hiệp ước Quốc tế về lĩnh vực Sở hữu Trí tuệ mà
Việt Nam tham gia
* Công
ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới.
Tổ
chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, tiếng Anh viết tắt là WIPO, được thành lập trên
cơ sở Công ước ký tại Stockholm này 14.07.1967 gọi là Công ước về việc thành
lập "Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới". Đây là một tổ chức liên chính
phủ có trụ sở tại Geneve, Thụy Sỹ và là một trong 16 Tổ chức chuyên môn của
Liên Hiệp Quốc. WIPO có trách nhiệm thúc đẩy việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
trên phạm vi toàn thế giới thông qua sự hợp tác giữa các quốc gia và quản lý
các hiệp định, hiệp ước khác nhau liên quan đến các khía cạnh luật pháp và quản
lý sở hữu trí tuệ. Tính đến ngày 22.06.1999 số nước thành viên của WIPO là 171.
Việt Nam là thành viên của WIPO từ ngày 02.07.1976.
* Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Công ước này được ký tại Paris năm 1883, tính đến ngày 22.06.1999 đã có tới 155 nước thành viên. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp kể từ ngày 08.03.1949. Những điều khoản chủ yếu của Công ước này tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
Đối
xử quốc gia: Mỗi nước thành viên của Công ước phải bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp cho công dân của các nước thành viên khác như bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp cho chính công dân nước mình.
Quyền
ưu tiên: Nếu người nộp đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nộp đơn đầu
tiên của mình ở một nước thành viên của Công ước thì trong thời hạn nhất định
sau ngày nộp đơn đầu tiên (12 tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng
đối với nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp) có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ ở bất
kỳ nước thành viên nào và những đơn nộp sau được xem như có ngày nộp đơn cùng
với ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.
Ngoài
ra Công ước còn quy định một số điều khoản bắt buộc mà các nước thành viên tuân
thủ như tính độc lập của Bằng độc quyền sáng chế do nhiều nước cấp cho cùng một
sáng chế, quyền được ghi tên vào Văn bằng bảo hộ của tác giả...
* Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn hiệu
Thoả ước này được ký tại Madrid năm 1891, trong đó quy định việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva. Theo Thoả ước này thì công dân của một nước thành viên của Thoả ước muốn bảo hộ một nhãn hiệu của mình tại nhiều nước thành viên khác, trước tiên phải đăng ký nhãn hiệu của mình tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia, sau đó thông qua Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia có thể nộp đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng quốc tế của WIPO. Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và chỉ rõ những nước thành viên mà người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu của mình (nước được chỉ định). Nước được chỉ định có thời gian 1 năm để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn hiệu trên lãnh thổ của mình. Nếu sau 1 năm nước được chỉ định không có ý kiến thì nhãn hiệu coi như được chấp nhận bảo hộ ở nước đó.
Tính
đến ngày 22.06.1999 Thoả ước Madrid có 51 thành viên. Việt Nam tham gia Thoả
ước này từ ngày 08.03.1949. Tính đến nay đã có hơn 50000 nhãn hiệu của người
nước ngoài được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam thông qua Thoả ước Madrid.
·
Hiệp ước
Hợp tác Patent (PCT)
Hiệp ước Hợp tác Patent được ký tại Washington năm 1970. Tính
đến ngày 22.06.1999 đã có 103 nước thành viên. Việt Nam tham gia Hiệp ước từ
ngày 10.03.1993.
Hiệp ước này tạo khả năng cho người nộp đơn đăng ký sáng
chế thuộc một quốc gia thành viên có thể nhận được sự bảo hộ cho sáng chế của
mình ở mỗi nước trong số nhiều nước thành viên khác bằng việc nộp một đơn duy
nhất (gọi là đơn quốc tế) tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia của nước
thành viên Hiệp ước mà người nộp đơn là công dân hoặc có chỗ ở thường trú hoặc
nộp đơn cho Văn phòng quốc tế của WIPO tại Geneva.
Hiệp ước Hợp tác Patent còn quy định chi tiết các yêu cầu
đối với đơn quốc tế, tra cứu đơn quốc tế và thủ tục xử lý những đơn này ở Cơ quan
Sở hữu công nghiệp của nước thành viên. Hiện nay phần lớn đơn đăng ký sáng chế
của nước ngoài nộp vào Việt Nam là thông qua Hiệp ước Hợp tác Patent.
Hướng dẫn khái quát về các văn bản pháp luật về sở
hữu công nghiệp ở Việt Nam
* LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 50/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005
* LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 50/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005
* Bộ luật sửa đổi bổ sung này có số 37/2009/QH12 được thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009 nhằm sửa đổi bổ sung cho Bộ luật Hình sự 1999, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2010.
* Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (Nghị định số 63/CP ngày 24.10.1996)
* Ngày 21/9/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp.
* Các VB pháp quy của Cục Sở hữu Công nghiệp về hình thức và nội dung các loại đơn về sở hữu công nghiệp
* Quy chế của Cục Sở hữu Công nghiệp về công bố thông tin sở hữu công nghiệp.
Hệ thống tổ chức chỉ đạo hoạt động và quản lý sở hữu công nghiệp
* Cục Sở hữu công nghiệp trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý các hoạt động sở hữu công nghiệp.
*
Cục Bản quyền tác giả trực thuộc Bộ Văn hoá Thông tin quản lý về bản quyền tác
giả, còn ở cấp tỉnh và thành phố Phòng Sở hữu Công nghiệp trực thuộc Sở Khoa
học Công nghệ và Môi trường quản lý các hoạt động sở hữu công nghiệp còn Phòng
Bản quyền tác giả trực thuộc Sở Văn hoá Thông tin quản lý các hoạt động liên
quan đến bản quyền tác giả.
Hệ thống đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp
Hệ thống cơ quan xét xử và thi hành án:
* Toà án nhân dân tối cao: Hướng dẫn công tác xét xử các vụ án về sở hữu công nghiệp cho các toà án địa phương và tiến hành xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án về sở hữu công nghiệp.
* Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương:Xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự và các vụ án hành chính về sở hữu công
nghiệp; xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự các tội liên quan đến sở
hữu công nghiệp.
* Bộ
Tư pháp (Cục thi hành án):Hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án và chỉ đạo, giám sát
công tác thi hành án.
* Sở
Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Phòng thi hành án): Thực hiện
cưỡng chế thi hành các bản án, quyết định của toà án các cấp.
Hệ thống các cơ quan hành chính bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp trong nội địa:
* Các
cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp cấp trung ương:
* Bộ
Khoa học và Công nghệ (Thanh tra Bộ):
-
Hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp;
- Xử
phạt vi phạm hành chính trong cả nước
- Các
cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu công nghiệp thuộc địa phương.
* Hệ
thống cơ quan hành chính kiểm soát biên giới: Hướng dẫn thực hiện các quy định
pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu hàng hoá. Chỉ đạo, giám
sát việc thực hiện pháp luật và xử phạt vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp
tại biên giới.
* Cục
Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Chỉ đạo, giám sát việc thực
hiện pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu tại địa phương. Xử lý
vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp trong xuất nhập khẩu tại địa phương.
* Hải
quan cửa khẩu:
Kiểm
tra tại cửa khẩu việc thực hiện quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp trong
xuất nhập khẩu hàng hoá. Xử lý vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp xảy ra
tại cửa khẩu.
Trích(Blog:Minhphuongmondiva) http://my.opera.com/minhphuongmondavia/blog/2011/05/09/v
No comments:
Post a Comment